(kontumtv.vn) – Thị trường năng lượng sinh học vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn khi các nguồn năng lượng này còn phân tán, không ổn định và thiếu tính bền vững.

Là quốc gia có nhiều tiềm năng về năng lượng sinh khối, những năm qua Việt Nam đã và đang nỗ lực nâng cao tỷ trọng sinh khối trong sản xuất điện năng. Các cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển điện sinh khối ở Việt Nam đã được ban hành năm 2014 và sửa đổi bổ sung năm 2020, nhằm khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này, với hi vọng sẽ đạt được mục tiêu tỷ trọng điện sinh khối sản xuất đến năm 2030 đạt 2,1%.

Việc đẩy mạnh hỗ trợ thực hiện để đạt các mục tiêu về năng lượng tái tạo cũng được nêu trong Chiến lược tăng trưởng xanh và Nghị quyết số 55/NQ-TW của Bộ Chính trị, về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển thị trường năng lượng sinh học ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó, khó khăn cơ bản là các nguồn năng lượng sinh học vẫn còn phân tán, không ổn định và thiếu tính bền vững. Nhất là nguồn phụ phẩm còn phải phụ thuộc và thay đổi theo mùa, vụ, nên việc kiểm soát số lượng đầu vào, giá cả của các loại nhiên liệu còn chưa được kiểm soát.

nang luong sinh khoi duoc coi la tru cot quan trong trong qua trinh chuyen doi nang luong ben vung hinh 1
Tận dụng tối đa các nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp làm nhiên liệu phát điện là hướng đi đúng đắn. (Ảnh minh họa: KT)

Mặt khác, kinh nghiệm phát triển, nguồn nhân lực cho các dự án nhiên liệu sinh học ở Việt Nam còn thiếu. Trong khi thông tin, cơ sở dữ liệu về tiềm năng cũng như các đánh giá về thị trường năng lượng sinh học còn chưa đáng tin cậy.

Đặc biệt, hiện nay, vốn đầu tư cho các dự án năng lượng sinh học, cụ thể là các dự án phát điện từ năng lượng sinh học vẫn còn ở mức cao, trong khi cơ chế giá mua điện sản xuất từ nguồn năng lượng sinh học chưa hấp dẫn các nhà đầu tư bởi chưa được trợ giá hỗ trợ giá mua.

Ngoài ra, nhiên liệu sinh học còn gặp trở ngại lớn khi cón có nhiều tác động đến môi trường, nhất là đối với khí sinh học phát sinh từ phân chăn nuôi thải ra có mùi hôi thối,… nếu có công nghệ xử lý hiệu quả, tận dụng tốt sẽ góp phần bảo vệ môi trường, nhưng nếu xử lý, phân hủy, tận dụng không tốt có thể sẽ gây tác động ngược đến môi trường lớn hơn.

Để thiết thực hóa việc phát triển nguồn tài nguyên sinh khối tại Việt Nam, Dự án Bảo vệ khí hậu thông qua phát triển thị trường năng lượng sinh học bền vững ở Việt Nam (Dự án BEM) do Bộ Môi trường, Bảo tồn Thiên nhiên và An toàn Hạt nhân Cộng hòa Liên bang Đức (BMU) tài trợ thông qua Chương trình Sáng kiến Khí hậu Quốc tế (IKI) và do Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo và GIZ đã được khởi động hồi đầu tháng 6 vừa qua và triển khai thực hiện từ năm 2019 – 2023.

Dự án BEM hi vọng đem lại lợi ích trực tiếp cho các nhà hoạch định chính sách, các cán bộ cấp trung ương và cấp tỉnh; khu vực tư nhân bao gồm các nhà đầu tư năng lượng sinh khối và các công ty tư vấn tại địa phương; các định chế tài chính; các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các trường Đại học – là những người đã và đang đẩy mạnh việc sử dụng nguồn tài nguyên sinh khối cho sản xuất nhiệt và điện ở Việt Nam.

Theo ông Sven Ernedal, Giám đốc Dự án năng lượng tái tạo và hiệu quả, thuộc Chương trình Hỗ trợ Năng lượng (ESP), tiềm năng về sinh khối ở Việt Nam được đánh giá rất lớn, có thể khai thác để sản xuất năng lượng, đặc biệt là sản xuất điện.

“Việc Chính phủ Việt Nam đưa ra các Quyết định tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển điện sinh khối sẽ giúp Việt Nam giảm phát thải khí nhà kính, tạo ra việc làm xanh, cải thiện an ninh và chất lượng nguồn cung điện và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành mía đường thông qua việc tăng doanh thu, tăng hiệu quả và giảm phế thải”, ông Sven Ernedal nói.

Thư ký thứ Nhất Đại sứ quán Đức, ông Joerg Rueger khẳng định, dự án BEM sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Chính phủ Việt Nam tăng tỷ trọng của năng lượng sinh khối trong nước. Năng lượng gió và mặt trời đã cho thấy khả năng phát triển mạnh tại Việt Nam, trong khi đó, năng lượng sinh khối vẫn chưa được khai thác đúng mức.

“Năng lượng sinh khối được coi là trụ cột quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng bền vững, do tận dụng tối đa các nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp như bã mía để phát điện, góp phần bảo vệ khí hậu. Số lượng các nhà máy điện sinh khối ngày càng tăng sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển năng lượng”, ông Joerg Rueger cho hay./.

Nguyễn Quỳnh/VOV.VN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *