(kontumtv.vn) – Nhiều chuyên gia cho rằng với tiềm lực kinh tế hiện nay, việc đầu tư tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam tốc độ thiết kế 350 km/giờ là không khả thi.

“Ở đây không có chuyện Bộ KH&ĐT đưa phương án cắt giảm tổng mức đầu tư so với Bộ GTVT mà hoàn toàn dựa trên các kịch bản, phương án đầu tư khác nhau nên có tổng mức đầu tư khác nhau. Báo chí nói Bộ KH&ĐT cắt giảm tổng mức đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao so với Bộ GTVT là hoàn toàn không chính xác…”. Đây là khẳng định của Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng tại hội thảo “Giải pháp công nghệ cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam” do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức mới đây.

duong sat cao toc bac –nam: toc do 200km/h, cho ca nguoi va hang? hinh 1
Chúng ta nên kết hợp vận chuyển hàng hóa và hành khách với tốc

độ trung bình 200 km/giờ?

Tại hội thảo, nhiều chuyên gia khẳng định, phương án 200 km/giờ cho dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam được đánh giá khả thi hơn 350 km/giờ cả về nguồn vốn, trần nợ công cũng như khả năng làm chủ công nghệ của doanh nghiệp trong nước.

Bài học lệ thuộc công nghệ ở 2 dự án đường sắt đô thị Hà Nội

Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng cho biết, Bộ GTVT đã đưa ra nhiều kịch bản phát triển đường sắt tốc độ cao, trong đó có phương án tốc độ 350 km/giờ với tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD. Song qua xem xét, Bộ KH&ĐT thấy rằng kịch bản đường sắt tốc độ thấp hơn (200 km/giờ) thì khả thi hơn kịch bản tốc độ cao (350 km/giờ) về nguồn vốn, trần nợ công…

“Bộ KH-ĐT không đưa ra phương án cắt giảm tổng mức đầu tư mà Bộ GTVT đề xuất, mà đưa ra kịch bản khác nên công nghệ và tổng mức đầu tư khác nhau. Vì vậy, Bộ KH-ĐT đã báo cáo Thủ tướng, đề nghị thành lập Hội đồng thẩm định để xem xét cụ thể các kịch bản”, ông Thắng cho hay.

“Các doanh nghiệp cơ khí đường sắt chưa thể đóng các toa xe đầu máy chạy được 200 – 300 km/giờ. Hà Nội và TP.HCM mong muốn phát triển đường sắt đô thị nhưng khả năng làm chủ công nghệ cực yếu, lệ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài như tuyến Cát Linh – Hà Đông với công nghệ Trung Quốc; tuyến Nhổn – Ga Hà Nội của Pháp…nên chi phí đắt đỏ. Chúng ta mới chủ động được xi măng, sắt đá sỏi và con người, còn lại chưa có gì nhiều hơn so với năm 2010”, ông Thắng nói.Dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao vào kỳ họp tháng 5/2020. Ông Thắng cũng cho biết rất mong muốn Việt Nam có tuyến đường sắt tốc độ cao như của Nhật Bản, nhưng tổng vốn đầu tư của dự án đường sắt tốc độ cao chiếm gần 1/4 GDP (250 tỷ USD). Ngoài ra, khả năng tiếp cận công nghệ của Việt Nam sau 10 năm vẫn không khác trước đây.

GS-TSKH Lã Ngọc Khuê, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT kiên quyết bảo lưu ý kiến xây dựng tuyến đường sắt mới, khổ đường ray 1.435mm, chạy chung tàu hàng và tàu khách với tốc độ 200 km/giờ.

Cùng quan điểm, ông Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học-Công nghệ-Môi trường của Quốc hội nhấn mạnh, cần phát triển vận tải hàng hóa đường sắt để cải thiện chi phí logistics. Khả năng đáp ứng vận tải hàng không còn rất lớn, nếu 26 sân bay được kết nối tốt thì còn tăng trưởng cao nên hành khách đi Bắc – Nam sẽ không đi tàu tốc độ cao.Theo ông Khuê, nếu nâng công suất 24 đôi tàu trên khổ đường 1m trong tương lai theo đề xuất của liên danh tư vấn thì vẫn không thể cạnh tranh được với đường bộ. Xu thế thế giới chỉ làm đường sắt tốc độ 200 km/giờ.

“Nhu cầu chưa bức xúc để đầu tư đường sắt cao tốc chạy riêng. Chúng ta nên kết hợp vận chuyển hàng hóa và hành khách với tốc độ trung bình 200 km/giờ”, ông Lĩnh nói.

Cân nhắc nền kinh tế chịu được đến đâu

Từ góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Chỉ Sáng, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam cho rằng, nếu xây dựng tàu tốc độ 200 km/giờ thì các doanh nghiệp trong nước sẽ làm được toa tàu, đường ray, điện động lực, xây dựng hạ tầng…

Trước những quan điểm ủng hộ kịch bản 200 km/giờ, ông Phạm Hữu Sơn, Tổng giám đốc TEDI – đại diện liên danh tư vấn, cho rằng đơn vị tư vấn đã ghi nhận xu hướng nhiều nước trên thế giới là tách tàu hàng và tàu khách, không chỉ chạy 300 km/giờ mà còn đến 400 – 500 km/giờ. Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam gắn liền 20 tỉnh thành, không chỉ phục vụ hai thành phố lớn.

duong sat cao toc bac –nam: toc do 200km/h, cho ca nguoi va hang? hinh 4
Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam được thuê tư vấn thẩm tra nước ngoài để thẩm định 

Thế giới đã chứng minh cự ly 300 – 800 km, đường sắt tốc độ cao hoàn toàn có thể cạnh tranh với hàng không. Ngoài ra, với công suất khai thác 25 đôi tàu đến năm 2050 trên đường sắt khổ 1 m được nâng cấp, tương ứng 12 triệu tấn/năm, cùng với 150 đôi tàu khách trên tuyến đường sắt tốc độ cao được xây mới, đường sắt sẽ đảm bảo năng lực đáp ứng cho tương lai.

“Đầu tư đường sắt tốc độ cao là cơ hội trả lại thị phần cho ngành đường sắt, đảm bảo tính cạnh tranh với các loại hình khác”, ông Sơn nói.

Dự án không vượt trần nợ công 65% GDP

Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn cho biết Bộ đưa ra ba phương án để so sánh, nghiên cứu và đề xuất theo hướng nâng cấp tối ưu hóa năng lực đường đơn của tuyến đường sắt hiện tại để khai thác vận tải hàng hóa và hành khách. Đồng thời, xây dựng đường sắt mới phục vụ tàu khách với định hướng về lâu dài khai thác với tốc độ tối đa 320 km/giờ, tổng diện tích đất khoảng 9.834 ha.

Suất đầu tư 38 triệu USD/km. Trong đó, giai đoạn 1 (2020-2032) đầu tư đoạn Hà Nội – Vinh dài 295 km, tổng đầu tư 12,022 tỉ USD và TP.HCM – Nha Trang dài 370 km với tổng đầu tư khoảng 12,691 tỉ USD. Giai đoạn 2 (2032-2050) đầu tư đoạn Vinh – Nha Trang dài 894 km với 33,998 tỉ USD để liên thông toàn tuyến.

Dự kiến vốn nhà nước khoảng 80%, tư nhân 20%, bình quân đầu tư hằng năm chiếm 0,7% GDP và giai đoạn 2 chiếm 0,55% GDP. “Với tình hình sử dụng và trả nợ công hiện nay của Chính phủ, dự án không làm vượt trần nợ công 65% GDP” – Thứ trưởng GTVT khẳng định.

Khẳng định việc xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao là cấp thiết, không thể chậm trễ, ông Phan Xuân Dũng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học- Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, những tham luận, ý kiến đóng góp hay phản biện sẽ được tổng hợp và báo cáo lên Quốc hội.

“Có 2 phương án đường sắt tốc độ cao đang được nghiên cứu là trên 300km/giờ và dưới 200km/giờ. Chính phủ cần cân nhắc nền kinh tế chịu được bao nhiêu trong số vốn đầu tư, nhưng cũng có giải pháp triển khai nhanh trong 10-15 năm tới không thể lâu hơn nữa,” ông Dũng nói./.

 

Phi Long/VOV.VN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *