(kontumtv.vn) – “Chúng tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường, giản dị, có thể nói với nhau về nhưng ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên này và bên kia”.
Họ là hai người khác nhau về chủng tộc, ở hai quốc gia cách xa nhau về địa lý và khác biệt về lịch sử hình thành. Những năm tháng chiến tranh, có lúc họ là kẻ thù một mất một còn của nhau trên mảnh đất nhỏ ven sông Thu Bồn (Quảng Nam). Sau khi cởi bỏ bộ đồ lính trận, trở về cuộc sống thường nhật trong thời bình, họ lại gặp nhau ở Việt Nam như một cơ duyên. Vậy mà cũng đã trên hai mươi năm. Điểm tương đồng gắn kết họ lại với nhau: một niềm tin bất diệt vào sức mạnh giáo dục đối với sự trường tồn của mỗi quốc gia. Đó là giá trị vĩnh cửu của hoà bình.
Nguyên Ngọc và Thomas Vallely trong khuôn viên Đại học Phan Châu Trinh (Hội An). Ảnh Vũ Thành Tự Anh |
Cuộc trò chuyện của chúng tôi với hai – kẻ – cựu – thù – hai – người – bạn – hai – nhà – văn – hoá ở cách nhau hơn nửa vòng trái đất luôn đau đáu về nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục mang trong mình nó nhiều khuyết tật.
Được biết hai ông vốn là cựu thù tại chiến trường bãi dâu sông Thu Bồn – Quảng Nam trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng may mắn, cả hai còn nguyên vẹn trở về. Ký ức chiến tranh ấy có ám ảnh các ông trong cuộc sống hoà bình hôm nay?
Nguyên Ngọc: Miệt bói ấy ngày trước là những bãi dâu (tiếng Quảng Nam gọi là “biền dâu”) xanh mướt và mênh mông, cơ sở của nghề lụa nổi tiếng xứ Quảng. Khi dâu đã bị quét sạch, thì tự nhiên mọc lên một loại cây gọi là cây bói, giống như lau sậy, hoang dã hơn, cũng mênh mông, mịt mùng hơn. Chúng tôi đào hầm bí mật trụ lại trong bói. Ngày nào Mỹ cũng bắn vào đấy, cả đêm nữa, có hôm còn tưới xăng đốt, chúng tôi cháy sém cả tóc, chậm chân một chút chết thiêu ngay… Thomas bảo, đúng năm ấy ông là thủy quân lục chiến ở Quảng Đà, chính ông đã bắn vào các bãi bói đó. Tôi bảo, cũng may ông bắn xoàng… Và chúng tôi cùng cười.
Thomas Vallely:
Nghe nói hai ông đang cùng phản biện cho một phim tài liệu lịch sử về chiến tranh Việt Nam? Sự thật lịch sử quan trọng nào của cuộc chiến tranh này sau 40 năm được công bố?
Nguyên Ngọc:
Suốt hơn 30 năm sau chiến tranh, Tommy trở lại Việt Nam, đã làm bao nhiêu việc vì Việt Nam, từ những điều to lớn góp phần cho thay đổi và phát triển của đất nước này, đến những việc có ích cụ thể, thiết thực… Vì sao? Tôi nghĩ, từ hậu chiến nhìn lại, chắc nhiều người Mỹ hiểu ra rằng chỉ đơn giản ra đi vì “nghĩa vụ công dân” như họ đã đơn giản ra đi, lại có thể tàn phá cả một đất nước tận ở đâu đâu. Nay họ muốn góp phần làm lại …
Thomas Vallely: Ở Việt Nam, thách thức này thậm chí còn lớn hơn bởi vì rất nhiều tài liệu lưu trữ cho đến nay vẫn rất khó tiếp cận. Một trong các lý do tại sao tôi quyết định tham gia thực hiện bộ phim này là vì các nhà làm phim thực tâm muốn xem xét cuộc chiến từ quan điểm của tất cả các bên chứ không chỉ từ phía Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn sự hỗ trợ từ chính phủ Việt Nam cho phép đoàn làm phim đến Việt Nam và trò chuyện với nhiều người đã từng tham gia cuộc chiến. Mong rằng nhiều người Việt Nam sẽ xem phim. Họ có thể đánh giá bộ phim về chủ đề phức tạp như thế thành công ra sao.
Nguyên Ngọc:
Nhà báo Mỹ gốc Ý quá cố Oriana Fallaci từng viết cuốn sách rất hay trong thời điểm chiến tranh Việt Nam ở giai đoạn khốc liệt nhất, trước và sau Mậu Thân 1968. Từ Việt Nam, bà nhận ra rằng: “Cuộc sống, cuộc chiến tranh và rồi chẳng có gì” – NXB TP. HCM – năm 1991. Trong bài thơ “Đá ơi”, tuyển tập Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn – 2010, người chiến sĩ năm xưa ấy cũng thốt lên lên tiếng thở dài: “Nghĩ cho cùng / trong mọi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân đều bại” . Với hai ông, chiến tranh là gì? Cuộc sống là gì, và hoà bình có phải là điều mà con người luôn chiến đấu để gìn giữ?
Nguyên Ngọc:Chúng ta cũng vậy, phải vậy. Cho nên, tôi nghĩ, đẹp thay, mà cũng là tất yếu chăng, ông ấy và tôi, chúng tôi lại gặp nhau trong giáo dục. Nhất thiết phải là trong giáo dục, bằng giáo dục. Không có cách nào khác. Chỉ có thể làm lại con người bằng giáo dục. Năm ngoái, Thomas Vallely được trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh vì cống hiến cho giáo dục Việt Nam. Trong diễn từ nhận giải thưởng tháng 3/2014, Tommy khẳng định chỉ có thể cứu đất nước này bằng giáo dục! Nghĩa là từ làm lại con người. Tôi nghĩ chắc ở nước mình, thậm chí có thể cho đến tận hôm nay, Phan Châu Trinh là người thật sự thống thiết hiểu rằng cần phải làm lại con người để mà xây dựng lại đất nước này, và chỉ có thể bằng giáo dục.
Có phải giáo dục trong ý nghĩa ấy đã kết hai ông lại cùng nhau trên con đường gian truân của giáo dục Việt Nam? Nhìn nhận của hai ông một cách thẳng thắn về thực trạng giáo dục Việt Nam? Và nó còn có cơ may nào cho một nền giáo dục vốn đứt quãng và có quá nhiều bất cập hiện nay?
Nguyên Ngọc:
Thomas Vallely: Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc rằng tự do là yếu tố nền tảng của một nền giáo dục có chất lượng. Nhưng nó không phải là yếu tố quan trọng duy nhất. Giáo dục phải truyền cảm hứng cho học viên, thôi thúc họ tự suy nghĩ cho bản thân mình và cho họ khả năng theo đuổi học tập suốt đời. Thi sĩ William Butler Yeats từng phát biểu một câu nổi tiếng rằng “giáo dục không phải là rót cho đầy tri thức mà là thổi bùng ngọn lửa”. Hẳn nhiên, giáo dục cũng phải chuẩn bị cho học viên đóng góp một cách có ý nghĩa cho xã hội của họ.
Hiện tại, tôi đang tham gia vào nỗ lực thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), một trường đại học độc lập, không vì lợi nhuận. Tôi hy vọng rằng cho dù FUV đi theo hướng đổi mới công nghệ để cung cấp cơ hội học tập được thiết kế nhằm chuẩn bị cho sinh viên đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế tri thức thế kỷ 21, FUV vẫn sẽ thể hiện tinh thần của Phan Châu Trinh.
Thomas J. Vallely trở lại Việt nam khá sớm, từ những năm 80 của thế kỷ trước, ông từng hướng dẫn các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam nghiên cứu thực địa sự phát triển của một số nước Đông Nam Á với kỳ vọng Việt Nam sẽ “phát triển theo hướng rồng bay”. Mục tiêu này của ông có đạt được?
Thomas Vallely: Cách đây vài năm, một số đồng nghiệp của tôi ở Trường Fulbright dịch cuốn sách Tại sao các quốc gia thất bại (**) trong đó tìm hiểu lý do vì sao một số ít quốc gia có thể trở thành nước phát triển cao trong khi đa số các nước khác lại thất bại. Các tác giả của cuốn sách này kết luận rằng chất lượng thể chế ở mỗi nước là yếu tố quyết định. Bởi vì thể chế phản ánh hệ thống chính trị của mỗi quốc gia, nên đó là một cách khác để nói rằng chính trị xác định quỹ đạo phát triển của mỗi quốc gia.
Cuốn Tại sao các quốc gia thất bại lập luận rằng những quốc gia thành công nhất là những quốc gia phát triển thể chế chính trị dung hợp. Ở mức độ khiêm tốn, quá trình này có thể được quan sát thấy tại Việt Nam. Theo tôi, việc củng cố vai trò và uy tín của Quốc hội là một trong những xu hướng đáng khích lệ nhất gần đây ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi không biết bất kỳ ai ở Việt Nam tin rằng tiến triển hiện nay đủ nhanh và đúng hướng để tiến tới các thể chế chính trị thực sự dung hợp.
Trong khi dường như có sự đồng thuận rộng rãi bề ngoài về những ưu tiên chính sách quan trọng như sự cần thiết phải cải cách thể chế, cải cách pháp lý và tái cấu trúc nền kinh tế, tôi không cho rằng những ưu tiên này rốt cuộc đã trở thành một tầm nhìn chung cho tương lai của xã hội Việt Nam. Xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là một mục tiêu đáng hoan nghênh, nhưng trên thực tế các khẩu hiệu kiểu như thế thực sự hàm ý gì?
Một tầm nhìn chung như vậy chỉ có thể phát khởi thông qua các cuộc tranh luận và thảo luận cởi mở. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã thấy ví dụ về những thảo luận rộng rãi trên cả nước có thể đưa đến tầm nhìn thống nhất hơn. Chúng ta đã thấy điều đó ở thảo luận về đổi mới hiến pháp năm 2013. Chúng ta đã chứng kiến điều đó qua sự thể hiện tình cảm đặc biệt tiếc thương đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Đến nay, những thảo luận này vẫn được tiếp tục hàng ngày trên internet. Đáng tiếc là những cuộc thảo luận này lại diễn ra chủ yếu ở bên ngoài thể chế công. Quốc hội có thể tạo ra một diễn đàn Việt Nam cần để kiến tạo một tầm nhìn quốc gia thuyết phục hơn.
Nhà văn Nguyên Ngọc từng chọn cho mình 3 địa điểm trên đất nước khốn khổ của ông để yêu mến với niềm tự hào và ray rứt khôn nguôi: Tây Nguyên, Hội An và Hà Nội. Còn Thomas, nơi nào ở Việt Nam mà ông có thể có chút cảm tình? Vì sao như vậy?
Nguyên Ngọc:
Thomas Vallely:
Xin cảm ơn Thomas Vallely và nhà văn Nguyên Ngọc đã dành thời gian quý báu để cùng trao đổi một câu chuyện dài trong thời bình về Việt Nam một cách thẳng thắn và đầy trách nhiệm.Chúng tôi cũng không quên cảm ơn TS Vũ Thành Tự Anh, người giúp chúng tôi tiếp cận với ông Thomas Vallely để thực hiện cuộc phỏng vấn này.
(*) Năm 1988, NXB Vintage Books – A Division of Random House – New York xuất bản cuốn: “A Bright Shining Lie – John Paul Vann and America in Vietnam” của Neil Sheehan, phóng viên của hãng thông tấn UPI và báo New York Times. Ông là người chứng kiến cuộc chiến tranh Việt Nam từ giữa năm 1962 – 1972. Từ đó, Neil Sheehan phát hiện ra John Paul Vann – một chuyên gia chống chiến tranh du kích – một con người mà thông qua cuộc đời – người ta có thể viết về sự dính líu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John Paul Van đã chết ở Việt Nam năm 1972 trong lúc vẫn tin rằng nước Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến. John Paul Vann là biểu tượng, là nhân vật của cuốn sách đoạt giải thưởng Pulitzer và giải thưởng sách quốc gia của Mỹ năm 1988.
Bản dịch của NXB TP. HCM năm 1990 và tái bản lần thứ hai vào năm 1995, mang tên: “Sự lừa dối hào nhoáng – John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam” do nhóm dịch giả ở Sài Gòn và nhà báo quá cố Lê Minh Đức hiệu đính.