(kontumtv.vn) – Chủ tịch Quốc hội chia sẻ, qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thực tế tại Việt Nam cho thấy, số người mất việc thấp, tỉ lệ thất nghiệp thấp nhưng tỉ lệ người tham gia thị trường lao động cũng thấp.
Ngay sau Phiên khai mạc Diễn đàn Kinh tế-Xã hội Việt Nam 2022, ngày 18/9 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia (Hà Nội), đã diễn ra Phiên hội thảo chuyên đề về “Thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững.”
Phiên thảo luận chuyên đề 2 có sự tham dự của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái; Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải; Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương; Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Vũ Cường; Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê Kđăm; Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan…
Phó Giám đốc thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Duy Bắc và Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Bùi Nhật Quang chủ tọa điều hành hội thảo.
Phát triển chất lượng nguồn nhân lực chất lượng, kỹ năng
Liên quan đến thị trường lao động, Chủ tịch Quốc hội chia sẻ, qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thực tế tại Việt Nam cho thấy, số người mất việc thấp, tỉ lệ thất nghiệp thấp nhưng tỉ lệ người tham gia thị trường lao động cũng thấp.
Một số ngành thiếu hụt lao động cục bộ. Chủ tịch Quốc hội đặt vấn đề phải chăng một bộ phận lao động đang khu trú ở đâu đó và chưa sẵn sàng tham gia thị trường lao động sau đại dịch.
Nhấn mạnh đây là vấn đề không chỉ cá nhân mình đặc biệt quan tâm mà cả các cơ quan đều cần tìm ra nguyên nhân, trả lời cho câu hỏi một bộ phận lao động đã đi đâu, Chủ tịch Quốc hội cho rằng qua thảo luận, trao đổi nhận diện thêm vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu cũng là kết quả của Diễn đàn.
Đóng góp ý kiến từ phía đại diện doanh nghiệp, Chủ tịch Hội đồng thành viên Deloitte Việt Nam Hà Thu Thanh cho biết, sau 2 năm ứng phó với đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp phải tạm đóng cửa hay giải thể thì phần lớn do khó khăn về tài chính, đặc biệt là khó khăn về dòng tiền để duy trì các hoạt động thường xuyên.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch thì lại gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, thiếu hụt cả số lượng và thiếu hụt lao động kỹ năng.
Việc thiếu hụt lao động kỹ năng đã và đang là một trở ngại lớn đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp đã tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu.
Cùng với đó là sự cạnh tranh về lao động lành nghề, lao động chất lượng cao đi kèm với quá trình chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam ngày càng khốc liệt.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và không ưu tiên cho các hoạt động đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, cải thiện năng lực cạnh tranh.
Tiến sỹ Lâm Văn Đoan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2022, nhiều dấu hiệu tích cực cho thấy thị trường lao động đã cơ bản phục hồi và đang phát triển theo xu hướng tích cực.
Số lao động bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch COVID-19 giảm mạnh, số người gia nhập lực lượng lao động tiếp tục tăng, lao động có việc làm tăng mạnh, đặc biệt là trong khu vực dịch vụ.
Thị trường lao động tăng trưởng mang tính bền vững hơn với mức tăng tập trung chủ yếu ở lao động có việc làm chính thức. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đều giảm. Thu nhập của người lao động tiếp tục được cải thiện.
Trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, ông Lâm Văn Đoan cho rằng, xã hội hiện nay cần quan tâm đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động trên thị trường còn chậm về cả ngành nghề, địa bàn không theo kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ, tạm thời trong một số ngành, lĩnh vực; chất lượng lao động còn hạn chế, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức lớn.
Cùng với đó, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp trong lực lượng lao động, đa số lao động khu vực phi chính thức chưa tham gia bảo hiểm xã hội; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đang bị chững lại và giảm đột ngột trong năm 2022.
Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết, để phát triển kinh tế, xã hội bền vững phải phát triển chất lượng nguồn nhân lực có chất lượng, có kỹ năng và đây cũng là một trong những đột phá chiến lược để phát triển đất nước trong thời gian tới và đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Thời gian qua chúng ta đã và đang tập trung để có nhiều giải pháp để đẩy mạnh nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có 6 giải pháp trọng tâm gồm đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có chất lượng giáo dục đào tạo mà trọng tâm đó là chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị, thay đổi phương thức giáo dục đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đảm bảo quy mô, cơ cấu ngành nghề đào tạo cho phục hồi và phát triển kinh tế xã hội của đất nước; hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư, cả doanh nghiệp, người sử dụng lao động tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo, phát triển kỹ năng nghề; xây dựng các mô hình gắn kết với giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và thị trường lao động theo từng vùng, từng địa phương phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng đối tượng đặc thù; đẩy mạnh dự báo nhu cầu về đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt là ngành nghề khoa học và kỹ thuật công nghệ, trong đó ưu tiên công nghệ thông tin, công nghệ mới, công nghệ cao; sắp xếp tổ chức mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, dễ tiếp cận đa dạng về loại hình, hình thức tổ chức, phân bổ hợp lý cả về cơ cấu ngành, trình độ vùng, miền và đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Chính sách hỗ trợ
Liên quan đến thực hiện các gói chính sách hỗ trợ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết bên cạnh các nhóm chính sách gián tiếp, Việt Nam cũng thực hiện hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt với quy mô tương đối lớn như chi từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi trực tiếp thông qua khoản trợ cấp Chính phủ và chính quyền địa phương… để chi hỗ trợ người lao động, nhóm người yếu thế, người có thu nhập thấp…
Chủ tịch Quốc hội nêu vấn đề, ở đây cần đánh giá tỷ trọng phương pháp hỗ trợ không chỉ đơn thuần là đánh giá theo Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 mà đặt trong tổng thể các giải pháp đã áp dụng từ đầu 2022 đến nay, cũng như các chính sách ban hành từ cuối 2021 và thực hiện trong năm 2022.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh đây là vấn đề cần đánh giá kỹ lưỡng hơn, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế ở mức độ nào đó phù hợp với Việt Nam.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà cho biết, một trong những mục tiêu trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm nay là thực hiện triển khai có hiệu quả chương trình hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và cho người vay vốn tại ngân hàng thương mại.
Về nội dung này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhanh chóng nhiều biện pháp. Trước hết, về hoàn thiện hành lang pháp lý, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phối hợp với các Bộ trình Chính phủ ban hành Nghị định 31, cùng ngày ban hành Thông tư 03 hướng dẫn các ngân hàng thương mại triển khai đến các đối tượng vay vốn.
Sau đó, Ngân hàng Nhà nước đã thu thập thông tin đăng ký từ các ngân hàng thương mại để cùng với các Bộ tiến hành đề xuất phân bổ ngân sách 40.000 tỷ đồng trong 2 năm, năm 2022 dự kiến phân bổ 16.000 tỷ đồng, năm 2023 dự kiến phân bổ 24.000 tỷ đồng.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng cần tập trung giải quyết một số nhóm khó khăn, vướng mắc. Trước hết là khó khăn về đối tượng được hỗ trợ lãi suất. Nhiều trường hợp khách hàng không hoạt động đơn ngành, mà hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi ưu tiên, hỗ trợ.
Ông Phạm Thanh Hà nhấn mạnh, cần tháo gỡ khó khăn về tiêu chí đánh giá, khách hàng phải có khả năng, có phương án kinh doanh, có khả năng phục hồi. Ở đây, thời điểm và quy cách, phương thức đánh giá, thẩm định của Ngân hàng thương mại, ngân hàng cho vay có sự khác biệt với việc đánh giá của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.
Để giải quyết những khó khăn này, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai các nhóm, tổ liên ngành để khảo sát tình hình thực tế triển khai tại các địa phương, tại các ngân hàng thương mại để nắm bắt và có giải đáp thắc mắc cũng như là giải quyết các vướng mắc trong thực tế.
Từ góc nhìn của UNDP, Chuyên gia kinh tế cao cấp của UNDP tại Việt Nam Jonathan Picus cho rằng, tiêu dùng nội địa đóng góp 60% vào tăng trưởng GDP, do đó nếu không kích thích được tiêu dùng nội địa sẽ dẫn đến sụt giảm GDP.
Để phục hồi và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay, ông Jonathan Picus nhấn mạnh, cùng với những biện pháp về tài khóa, tiền tệ cần quan tâm đến chi tiêu của người dân. Khi người dân được hưởng lợi sẽ kích thích chi tiêu; từ đó các doanh nghiệp hưởng lợi từ vòng quay mua sắm và tiếp tục tăng cường sản xuất kinh doanh. Đồng thời gói tài khóa đầu tiên Việt Nam cần ưu tiên thực hiện là kích thích chi tiêu; gia tăng chi tiêu thị trường nội địa.
Chuyên gia kinh tế cao cấp của UNDP tại Việt Nam lưu ý, Việt Nam cần có cơ chế phòng vệ cho khủng hoảng trong tương lai, có thể xem xét tăng cường các biện pháp hỗ trợ về bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội cho trẻ em, hỗ trợ đối tượng yếu thế, đối tượng chính sách xã hội.
Phát biểu tại thảo luận bàn tròn, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Bùi Trung Nghĩa cho biết, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội và Nghị quyết 43 của Quốc hội, các chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp có thể phân loại hai nhóm: Nhóm chính sách hỗ trợ về giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, người lao động đó là giảm phí, thuế, hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động; Nhóm giải pháp tháo gỡ các rào cản về thể chế, cơ chế, chính sách, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, điều hành và quản lý nhà nước và chính sách điều hành hài hòa, hợp lý và hiệu quả các chính sách nhằm đảm bảo giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế.
Ông Bùi Trung Nghĩa cho biết cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao các chính sách và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, đặc biệt là chính sách về giảm chi phí đầu vào, nguyên liệu sản xuất, sử dụng hiệu quả Qũy bình ổn để hạn chế tăng giá, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, chính sách ổn định thị trường giá cả, ngoại tệ. Tuy nhiên, số vốn giải ngân các gói hỗ trợ so với kế hoạch còn chậm, nguyên nhân do điều kiện, thủ tục phức tạp, trong đó thủ tục vay vốn hỗ trợ lãi suất chưa thực sự phù hợp và chưa đáp ứng nhu cầu.
Để tiếp tục tạo điều kiện phục hồi kinh tế, xã hội những tháng cuối năm 2022 và năm 2023, ông Bùi Trung Nghĩa cho biết, VCCI đã đề xuất tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý về đầu tư và kinh doanh; tiếp tục giảm chi phí cho doanh nghiệp, như các phương án giảm thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt với xăng dầu; giảm chi phí tiền điện, một trong những chi phí đầu vào quan trọng của doanh nghiệp; có biện pháp tháp gỡ khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận khoản vốn vay ưu đãi cho doanh nghiệp; có giải pháp hỗ trợ kịp thời một số ngành đang phục hồi mạnh như ngành du lịch, dịch vụ, xuất khẩu, hoạt động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đang thiếu lao động.
Quốc hội và Chính phủ cần thực hiện giám sát chương trình đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nhân lực. Cùng với đó là xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, tạo thuận lợi cho sự ra đời của mô hình kinh doanh mới, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo đảm cân bằng hài hòa lợi ích các bên; bắt kịp xu hướng tăng trưởng xanh bằng cách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Ông Bùi Trung Nghĩa cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; sự cần thiết có chương trình hành động cụ thể, thiết thực để nâng cao khả năng tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA), qua đó tăng cường các hoạt động xuất nhập khẩu, đáp ứng sản xuất trong nước, xử lý vướng mắc chính sách liên quan quy tắc xuất xứ trong thực hiện các FTA. Tiếp theo là nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi của bộ máy chính quyền các cấp.
Phát biểu tại phiên thảo luận chuyên đề 2, Tiến sỹ Trần Du Lịch nhấn mạnh, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng sau đại dịch có ba loại. Thứ nhất là mở cửa trở lại là hoạt động liền; thứ hai là khó khăn về vốn, được hỗ trợ tín dụng hoạt động lại được; thứ ba là các doanh nghiệp mất thị trường, thiếu lao động và nợ chồng chất.
Nhiều doanh nghiệp cần vốn nhưng hấp thụ vốn còn rất khó khăn, do đó cần phải được tháo gỡ mới phục hồi, phát triển được…
Phát biểu kết luận, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Duy Bắc nêu rõ tại Phiên hội thảo chuyên đề 2, các đại biểu đã nghe 3 tham luận chính về triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực phương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; nâng cao năng lực cạnh tranh và sức chống chịu của doanh nghiệp trong bối cảnh mới; mở rộng diện bao phủ an sinh xã hội cho người dân, thúc đẩy việc làm bền vững trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội.
Bên cạnh đó, hội thảo cũng được nghe nhiều ý kiến trao đổi, thảo luận của các đại biểu về quá trình triển khai cũng như tác động và hiệu quả của chương trình phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội.
Về những kết quả trong hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững trong thời gian qua, các chính sách được ban hành kịp thời, linh hoạt, cơ bản phù hợp với diễn biến và tác động của dịch bệnh cũng như tình hình kinh tế, xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế.
Các chính sách hỗ trợ thông qua việc giảm nhẹ nghĩa vụ tài chính, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng và đảm bảo khả năng duy trì sản xuất cho doanh nghiệp có hiệu quả cao.
Chính sách đưa ra đã được tính toán cẩn trọng, phối hợp chặt chẽ trong triển khai nên không ảnh hưởng lớn đến các cân đối chủ chốt của nền kinh tế, đảm bảo thị trường tài chính tiền tệ phát triển an toàn, lành mạnh. Các chỉ số kinh tế vĩ mô được giữ vững ổn định, trong đó vẫn đảm bảo dư địa cho phục hồi tăng trưởng kinh tế./.